|Cùng nhau chia sẽ để có nhiều kiến thức | Những cái tôi biết bạn cũng biêt |
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
A lô A lô :: Diễn đàn đang đi vào hoạt động nếu các bạn thấy lỗi xin góp ý ngay bên góc phải cho mình nhé.
  • Ảnh ngẫu nhiên
ceffort (162)
neckeh (25)
nobody (1)
Câu điều kiện loại 0 Trả lờiCâu điều kiện loại 0 - 3 Trả lời
Thông báo ! Trả lờiThông báo ! - 2 Trả lời
Chuyển mạng giữ số : Chưa chắc thuê bao đã hào hứng Trả lờiChuyển mạng giữ số : Chưa chắc thuê bao đã hào hứng - 1 Trả lời
Cách học Matlab hiệu quả Trả lờiCách học Matlab hiệu quả - 1 Trả lời
Tài liệu Mainboard Trả lờiTài liệu Mainboard - 1 Trả lời
Tiêu đề: Sự khác nhau giữa các phương pháp ghép kênh và các phương pháp đa truy nhập Trả lờiTiêu đề: Sự khác nhau giữa các phương pháp ghép kênh và các phương pháp đa truy nhập - 1 Trả lời
Test thử bài viết ::: Trả lờiTest thử bài viết ::: - 1 Trả lời
Cách đọc bài dạng văn bản online trong Forum Trả lờiCách đọc bài dạng văn bản online trong Forum - 1 Trả lời
[PC] - Khôi phục dữ liệu dễ dàng khi bị ghost nhầm ! Trả lời[PC] - Khôi phục dữ liệu dễ dàng khi bị ghost nhầm ! - 1 Trả lời
Thông báo ! lượt xemThông báo ! - 1835 Xem
Chuyển trang lượt xemChuyển trang - 1725 Xem
Chuyển mạng giữ số : Chưa chắc thuê bao đã hào hứng lượt xemChuyển mạng giữ số : Chưa chắc thuê bao đã hào hứng - 1092 Xem
NỘI QUY DIỄN ĐÀN lượt xemNỘI QUY DIỄN ĐÀN - 1036 Xem
Test thử bài viết ::: lượt xemTest thử bài viết ::: - 1032 Xem
Tài liệu Mainboard lượt xemTài liệu Mainboard - 1021 Xem
Tiêu đề: Sự khác nhau giữa các phương pháp ghép kênh và các phương pháp đa truy nhập lượt xemTiêu đề: Sự khác nhau giữa các phương pháp ghép kênh và các phương pháp đa truy nhập - 944 Xem
Câu điều kiện loại 0 lượt xemCâu điều kiện loại 0 - 913 Xem
Cách học Matlab hiệu quả lượt xemCách học Matlab hiệu quả - 887 Xem
Test thử diễn đàn lượt xemTest thử diễn đàn - 881 Xem

//

Công nghệ 4G

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Wed Jun 13, 2012 10:00 am#1
ceffort
Mình sẽ làm Được !
Giám đốc
ceffort
Giám đốc

https://vienthongvn.forum-viet.com
Tổng số bài gửi : 162
Xu bạn hiện có là : 490
Số lần được thanks : 3
Join date : 17/05/2012
Age : 34
Đến từ : Quỳnh lưu - Nghệ An
Humor : Mình sẽ làm Được !

Bài gửiTiêu đề: Công nghệ 4G

Thế nào là mạng 4G?

Ngành công nghệ viễn thông đã chứng kiến những phát triển ngoạn mục trong những năm gần đây. Khi mà công nghệ mạng thông tin di động thế hệ thứ ba 3G chưa có đủ thời gian để khẳng định vị thế của mình trên toàn cầu, người ta đã bắt đầu nói về công nghệ 4G (Fourth Generation) từ nhiều năm gần đây. Thế nhưng, nói một cách chính xác thì 4G là gì? Liệu có một định nghĩa thống nhất cho thế hệ mạng thông tin di động tương lai 4G?
Ngược dòng thời gian...
Trong hơn một thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến sự thành công to lớn của mạng thông tin di động thế hệ thứ hai 2G. Mạng 2G có thể phân ra 2 loại:
mạng 2G dựa trên nền TDMA
CDMA là viết tắt của các từ Code Division Multiple Access, Đa truy cập phân chia theo mã số. Đây là một công nghệ mới mang tính đột phá được ứng dụng rộng rãi trên khắp thế giới và mang ý nghĩa là tiêu chuẩn chung toàn cầu của thế hệ điện thoại di động thế hệ 3 mà thế giới mong muốn đạt tới

Sự khác nhau giữa công nghệ CDMA & GSM?
Vào thập kỷ 90, dịch vụ điện thoại di động phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới nói chung và khu vực Châu Á nói riêng. Các nước đã chú trọng việc đầu tư xây dựng hệ thống viễn thông tiên tiến, hiện đại để đáp ứng hàng triệu khách hàng có nhu cầu sử dụng điện thoại di động.

GSM (Global System for Mobile communications) - Hệ thống thông tin di động toàn cầu và CDMA – Đa truy cập phân kênh theo mã số là những hệ thống vô tuyến di động kỹ thuật số tiên tiến được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới hiện nay.

GSM thực chất là phiên bản của công nghệ TDMA – sử dụng phương thức Đa truy cập phân chia theo thời gian. GSM số hóa và nén dữ liệu, sau đó chuyển lên kênh truyền dẫn bằng 2 luồng dữ liệu người dùng khác nhau, mỗi luồng chiếm trên một khe thời gian riêng. Băng thông lúc đầu chia ta thành những kênh sóng 200 kHz và sau đó phân kênh dựa trên khe thời gian. Người dùng kênh sóng sẽ thay phiên nhau tuần tự, do vậy chỉ có một người sử dụng trên một kênh và chỉ có thể sử dụng được theo những giai đoạn rất ngắn.

CDMA, khác với GSM, sau quá trình số hóa , dữ liệu được trãi trên toàn bộ trãi băng phổ rộng dành sẵn cho nó. Nhờ vậy, nhiều cuộc gọi có thể tiến hành đồng thời trên cùng một kênh. Mỗi bit thoại được ấn định một tần số mã đặc trưng và tín hiệu này được truyền dẫn trên một dãi băng thông rộng (1.25 MHz). Tín hiệu sẽ được chọn bằng thiết bị thu nhận, thiết bị này đã được lập trình để nhận dạng mã đặc trưng đó.

Với hiệu suất tái sử dụng tần số trải phổ cao và điều khiển năng lượng nên nó cho phép quản lý số lượng thuê bao cao gấp 5-20 lần so với công nghệ GSM. Với tốc độ truyền dữ liệu cao hơn mạng GSM hiện tại, CDMA là công nghệ đáp ứng nhanh và hiệu quả các dịch vụ thoại, thoại và dữ liệu, fax, Internet. CDMA còn rất hữu dụng trong việc cung cấp dịch vụ điện thoại vô tuyến cố định có chất lượng ngang bằng với hệ thống hữu tuyến nhờ áp dụng kỹ thuật mã hóa thoại mới.

Ngoài ra, sử dụng công nghệ CDMA sẽ ít tốn pin, thời gian đàm thoại lâu hơn. Trong thông tin di động, thuê bao di chưyển khắp nơi với nhiều tốc độ khác nhau, vì thế tín hiệu do thuê bao phát ra có thể bị sụt giảm một cách ngẫu nhiên. Để bù đắp sự sụt giảm này, trong khi hệ thống GSM phải điều chỉnh máy điện thoại tăng tối đa mức công suất phát, công nghệ CDMA sử dụng các thuật toán điều khiển nhanh và chính xác, nhờ vậy máy điện thoại chỉ phát ở mức công suất vừa đủ để đảm bảo chất lượng tín hiệu. Kết quả là làm tăng tuối thọ pin, thời gian chờ và đàm thoại lâu hơn.

Hệ thống CDMA có bán kính phục vụ của một trạm phủ sóng lớn hơn các hệ thống GSM, nghĩa là ít trạm gốc hơn, giảm bớt chi phí vận hành dẫn đến việc tiết kiệm cho cả nhà khai thác và người sử dụng mà vẫn đảm bảo chất lượng cuộc gọi đạt tới mức tối ưu

Công nghệ CDMA có những lợi ích nào?
Công nghệ CDMA mang đến rất nhiều tiện ích cho khách hàng:
Chất lượng cuộc gọi được cải tiến: CDMA cung cấp chất lượng âm thanh trung thực và rõ ràng hơn hệ thống di động sử dụng công nghệ khác.
Tính bảo mật cao.
Ít tốn pin, thời gian đàm thoại lâu và kích thước máy nhỏ hơn.
Cung cấp nhiều dịch vụ cộng thêm và truyền dữ liệu với tốc độ cao.
__________________

Ðây là một phương thức di chuyễn tín hiệu bằng vô tuyến thông tin, phương thức này cho phép nhiều người cùng xữ dụng thay phiên nhau trên cùng một băng tần mà không bị lẩn lộn những tín hiệu với nhau bằng cách chia cho mổi người một khoảng thời gian khác nhau

Ða kết phân thời gian (Time Division Multiple Access viết tắt là TDMA) là một phương thức xữ dụng làn sóng vô tuyến để chuyễn âm thanh hoặc những cuộc điện đàm. Phương thức này cho phép mổi cú điện được phép xũ dụng hoàn toàn băng tần số trong một khoảng thời gian rất ngắn, trong khi những cú điện thoại khác cũng củng cùng dùng chung một băng tần số cũng có một thời gian ngắn, và thay phiên nhau thuyên chuyễn những cuộc điện đàm khác nhau.

Thí dụ: Một băng tần điện thoại trong hê thống Ða Kết Phân Thời Gian có bốn cú điện đàm đang được xữ dụng gọi là điện đàm A, B, C, D. Ðiện đàm A được chỉ định là một khoảng thời gian ấn định là a, B được chỉ định là b, C và D cũng thế, được chỉ định là c và d. Những khoảng thời gian này là những thởi gian rất ngắn, chứa đựng những dữ kiện của A, B, C, D và được tuần tự chuyển đi qua hệ thống vô tuyến trong cùng một băng tần trong hệ thống Ða Kết Phân Thời Gian.

TDMA thường được coi là một phương thức của thế hệ thứ hai của hệ thống điện thoại di động(digital cellular system). Thế hệ thứ nhất của hệ thống điện thoại di động là hê thống vô tuyến điện thoại (analog cellular system). Hiên nay trên thế giới có một số phương thức khác nhau cùng xữ dụng TDMA FM làm nền móng. Chủ điểm của thế hệ thứ hai của điện thoại di động này là xữ dụng hoàn toàn là tín hiệu (digital) và tạo ra một tiêu chuẩn cho toàn cầu.

Ðể cộng thêm vào sự tăng cường thêm nhiều cuộc điện đàm trong cùng một tần số của đa kết phân thời gian, phương thức này có nhiều sự lợi ích hơn những phương thức khác là: Phương thức này rất dể dàng thu nhậ.p cách phát đi những dử kiện (data) cũng như âm thanh (voice) Phương thức này cũng mang những dử kiện qua không với một tốc độ khá cao là từ 64Kbps đến 120Mbps. Với sự kiện này những công ty điện tín thông tin cũng có đủ khã năng cung cấp những đường thông tin như fax, dử kiện (data), và âm tín ngắn (short message) cũng như thông tin đa dạng(multimedia) và hội họp bằng điện ảnh (videoconference).

Không giống như kỷ thuật quang phổ lan rộng, có một điều tai hại cho kỷ thuật này là vì cùng xũ dụng một tần số và cùng một lúc nên sự phá nhiểu của những người xữ dụng khác trong cùng một tần số. Phương thức Ða Kết Phân Thời Gian chia những người xữ dụng làn sóng (users) bằng thời gian để làm chắc chắn rằng chúng không quấy nhiểu lẩn nhau trong cùng một lúc đang phát tín hiệu

Phương thức này cũng tiết kiệm được sự bền bỉ , lâu dài của pin (battery life). Trong khi cuộc điện đàm những máy điện thoại di động xũ dụng phương thức đa kết phân thời gian chỉ phàt đi từ 1/3 cho đến 1/10 mà thôi. Song tần số 800/1900 Mhz của phương thức Ða Kết Phân Thời Gian cũng có những ích lợi sau đây: Song tần số có những ứng dụng y như nhau, người xữ dụng có thể dùng cả hai tần số mà không gặp trở ngại. Với phương thức Ða Kết Phân Thời Gian người xữ dụng điện thoại song thức song tần số cũng có thể chuyển từ điện tín qua vô tuyến mà không gặp trỡ ngại.

Ða Kết Phân Thời Gian hoạt động như thế nào ?

Ða Kết Phân Thời Gian nhờ vào những làn sóng âm thanh cụ thể là đả được chuyễn thành tín hiệu điện tín (digitized) , những tín hiệu đã phân ra và gom lại thành những tràng tín hiệu dài khoảng vài mili - giây (mS). Những dữ kiện (packets) này được chỉ định trên một tần số trong một thời gian ngắn rồi được chuyễn sang tần số khác. Hợp cùng với những dữ kiện của các cú điện đàm khác chúng được gởi đi trong cùng một tần số có nhiều khoảng thời gian nhất định trong cùng một lúc. Kỷ thuật đa kết được xữ dụng trong phương thức này làm tâng số lượng điện đàm được nhiều hơn phương thức vô tuyến (analog). Những cú điện này cùng chia sẻ một tần số thường là 3 cú điện nhưng cũng có thể nhiều hơn tùy theo những máy phát của từng địa phương. Phương thức đa kết phân thời gian này cũng được dùng trong hệ thống điện tín thông tin của Âu Châu (GSM) và hệ thống thông tin của Nhật Bản (PDC).

Phương thức này dược gọi là tiêu chuẩn quốc tế IS-54 và IS-136, đã đem một ích lợi cho nền thông tin là đã tăng gấp ba lần những tần số vô tuyến bằng cách chia 30KHz thành 3 khoảng thời gian nhất định, và chỉ định cho 3 cú điện đàm cho mổi khoảng thời gian đó trong cùng một lúc. Hiện tại, với những kỷ thuật hiện có, nguòi ta có thể dùng 6 khoảng thời gian khác nhau, và chi cho 6 cú điện đàm. Nhưng trong tuong lai, với những kỷ thuật tân tiên, trong một tần số chúng ta có thể chia ra đuọc 40 lần nhiều hơn những hệ thống vô tuyến hiệ
và mạng 2G dựa trên nền CDMA.:
Công nghệ CDMA là gì?
Công nghệ CDMA là gì?
CDMA là viết tắt của các từ Code Division Multiple Access, Đa truy cập phân chia theo mã số. Đây là một công nghệ mới mang tính đột phá được ứng dụng rộng rãi trên khắp thế giới và mang ý nghĩa là tiêu chuẩn chung toàn cầu của thế hệ điện thoại di động thế hệ 3 mà thế giới mong muốn đạt tới

Sự khác nhau giữa công nghệ CDMA & GSM?
Vào thập kỷ 90, dịch vụ điện thoại di động phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới nói chung và khu vực Châu Á nói riêng. Các nước đã chú trọng việc đầu tư xây dựng hệ thống viễn thông tiên tiến, hiện đại để đáp ứng hàng triệu khách hàng có nhu cầu sử dụng điện thoại di động.

GSM (Global System for Mobile communications) - Hệ thống thông tin di động toàn cầu và CDMA – Đa truy cập phân kênh theo mã số là những hệ thống vô tuyến di động kỹ thuật số tiên tiến được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới hiện nay.

GSM thực chất là phiên bản của công nghệ TDMA – sử dụng phương thức Đa truy cập phân chia theo thời gian. GSM số hóa và nén dữ liệu, sau đó chuyển lên kênh truyền dẫn bằng 2 luồng dữ liệu người dùng khác nhau, mỗi luồng chiếm trên một khe thời gian riêng. Băng thông lúc đầu chia ta thành những kênh sóng 200 kHz và sau đó phân kênh dựa trên khe thời gian. Người dùng kênh sóng sẽ thay phiên nhau tuần tự, do vậy chỉ có một người sử dụng trên một kênh và chỉ có thể sử dụng được theo những giai đoạn rất ngắn.

CDMA, khác với GSM, sau quá trình số hóa , dữ liệu được trãi trên toàn bộ trãi băng phổ rộng dành sẵn cho nó. Nhờ vậy, nhiều cuộc gọi có thể tiến hành đồng thời trên cùng một kênh. Mỗi bit thoại được ấn định một tần số mã đặc trưng và tín hiệu này được truyền dẫn trên một dãi băng thông rộng (1.25 MHz). Tín hiệu sẽ được chọn bằng thiết bị thu nhận, thiết bị này đã được lập trình để nhận dạng mã đặc trưng đó.

Với hiệu suất tái sử dụng tần số trải phổ cao và điều khiển năng lượng nên nó cho phép quản lý số lượng thuê bao cao gấp 5-20 lần so với công nghệ GSM. Với tốc độ truyền dữ liệu cao hơn mạng GSM hiện tại, CDMA là công nghệ đáp ứng nhanh và hiệu quả các dịch vụ thoại, thoại và dữ liệu, fax, Internet. CDMA còn rất hữu dụng trong việc cung cấp dịch vụ điện thoại vô tuyến cố định có chất lượng ngang bằng với hệ thống hữu tuyến nhờ áp dụng kỹ thuật mã hóa thoại mới.

Ngoài ra, sử dụng công nghệ CDMA sẽ ít tốn pin, thời gian đàm thoại lâu hơn. Trong thông tin di động, thuê bao di chưyển khắp nơi với nhiều tốc độ khác nhau, vì thế tín hiệu do thuê bao phát ra có thể bị sụt giảm một cách ngẫu nhiên. Để bù đắp sự sụt giảm này, trong khi hệ thống GSM phải điều chỉnh máy điện thoại tăng tối đa mức công suất phát, công nghệ CDMA sử dụng các thuật toán điều khiển nhanh và chính xác, nhờ vậy máy điện thoại chỉ phát ở mức công suất vừa đủ để đảm bảo chất lượng tín hiệu. Kết quả là làm tăng tuối thọ pin, thời gian chờ và đàm thoại lâu hơn.

Hệ thống CDMA có bán kính phục vụ của một trạm phủ sóng lớn hơn các hệ thống GSM, nghĩa là ít trạm gốc hơn, giảm bớt chi phí vận hành dẫn đến việc tiết kiệm cho cả nhà khai thác và người sử dụng mà vẫn đảm bảo chất lượng cuộc gọi đạt tới mức tối ưu

Công nghệ CDMA có những lợi ích nào?
Công nghệ CDMA mang đến rất nhiều tiện ích cho khách hàng:
Chất lượng cuộc gọi được cải tiến: CDMA cung cấp chất lượng âm thanh trung thực và rõ ràng hơn hệ thống di động sử dụng công nghệ khác.
Tính bảo mật cao.
Ít tốn pin, thời gian đàm thoại lâu và kích thước máy nhỏ hơn.
Cung cấp nhiều dịch vụ cộng thêm và truyền dữ liệu với tốc độ cao.

Đánh dấu điểm mốc bắt đầu của mạng 2G là sự ra đời của mạng D-AMPS (hay IS-136) dùng TDMA phổ biến ở Mỹ. Tiếp theo là mạng CdmaOne (hay IS-95) dùng CDMA phổ biến ở châu Mỹ và một phần của châu Á, rồi mạng GSM dùng TDMA, ra đời đầu tiên ở Châu Âu và hiện được triển khai rộng khắp thế giới. Sự thành công của mạng 2G là do dịch vụ và tiện ích mà nó mạng lại cho người dùng, tiêu biểu là chất lượng thoại và khả năng di động.

Hình 1: Sơ đồ tóm lược quá trình phát triển của mạng thông tin di động tế bào
Tiếp nối thế hệ thứ 2, mạng thông tin di động thế hệ thứ ba 3G đã và đang được triển khai nhiều nơi trên thế giới. Cải tiến nổi bật nhất của mạng 3G so với mạng 2G là khả năng cung ứng truyền thông gói tốc độ cao nhằm triển khai các dịch vụ truyền thông đa phương tiện. Mạng 3G bao gồm mạng UMTS sử dụng kỹ thuật WCDMA, mạng CDMA2000 sử dụng kỹ thuật CDMA và mạng TD-SCDMA được phát triển bởi Trung Quốc. Gần đây công nghệ WiMAX cũng được thu nhận vào họ hàng 3G bên cạnh các công nghệ nói trên. Tuy nhiên, câu chuyện thành công của mạng 2G rất khó lặp lại với mạng 3G. Một trong những lý do chính là dịch vụ mà 3G mang lại không có một bước nhảy rõ rệt so với mạng 2G. Mãi gần đây người ta mới quan tâm tới việc tích hợp MBMS (Multimedia broadcast and multicast service) và IMS (IP multimedia subsystem) để cung ứng các dịch vụ đa phương tiện.
Khái niệm 4G bắt nguồn từ đâu?
Có nhiều định nghĩa khác nhau về 4G, có định nghĩa theo hướng công nghệ, có định nghĩa theo hướng dịch vụ. Đơn giản nhất, 4G là thế hệ tiếp theo của mạng thông tin di động không dây. 4G là một giải pháp để vượt lên những giới hạn và những điểm yếu của mạng 3G. Thực tế, vào giữa năm 2002, 4G là một khung nhận thức để thảo luận những yêu cầu của một mạng băng rộng tốc độ siêu cao trong tương lai mà cho phép hội tụ với mạng hữu tuyến cố định. 4G còn là hiện thể của ý tưởng, hy vọng của những nhà nghiên cứu ở các trường đại học, các viện, các công ty như Motorola, Qualcomm, Nokia, Ericsson, Sun, HP, NTT DoCoMo và nhiều công ty viễn thông khác với mong muốn đáp ứng các dịch vụ đa phương tiện mà mạng 3G không thể đáp ứng được.
Theo dòng phát triển…
Ở Nhật, nhà cung cấp mạng NTT DoCoMo định nghĩa 4G bằng khái niệm đa phương tiện di động (mobile multimedia) với khả năng kết nối mọi lúc, mọi nơi, khả năng di động toàn cầu và dịch vụ đặc thù cho từng khách hàng. NTT DoCoMo xem 4G như là một mở rộng của mạng thông tin di động tế bào 3G. Quan điểm này được xem như là một “quan điểm tuyến tính” trong đó mạng 4G sẽ có cấu trúc tế bào được cải tiến để cung ứng tốc độ lên trên 100Mb/s. Với cách nhìn nhận này thì 4G sẽ chính là mạng 3G LTE , UMB hay WiMAX 802.16m. Nhìn chung đây cũng là khuynh hướng chủ đạo được chấp nhận ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Gần đây trên nhiều blog công nghệ đưa thông tin: “In-Stat nói rằng ITU sẽ công bố trong 2008/2009, 4G chính là LTE, UMB và IEEE 802.16m WiMAX”.
Bên cạnh đó, mặc dù 4G là thế hệ tiếp theo của 3G, nhưng tương lai không hẳn chỉ giới hạn như là một mở rộng của mạng tế bào. Ví dụ ở châu Âu, 4G được xem như là khả năng đảm bảo cung cấp dịch vụ liên tục, không bị ngắt khoãng với khả năng kết nối với nhiều loại hình mạng truy nhập vô tuyến khác nhau và khả năng chọn lựa mạng vô tuyến thích hợp nhất để truyền tải dịch vụ đến người dùng một cách tối ưu nhất. Quan điểm này được xem như là “quan điểm liên đới”. Do đó, khái niệm “ABC-Always Best Connected” (luôn được kết nối tốt nhất) luôn được xem là một đặc tính hàng đầu của mạng thông tin di động 4G. Định nghĩa này được nhiều công ty viễn thông lớn và nhiều nhà nghiên cứu, nhà tư vấn viễn thông chấp nhận nhất hiện nay.
Dù theo quan điểm nào, tất cả đều kỳ vọng là mạng thông tin di động thế hệ thứ tư 4G sẽ nổi lên vào khoảng 2010-2015 như là một mạng vô tuyến băng rộng tốc độ siêu cao.
Thiên về hướng “liên đới”
Mạng 4G sẽ không phải là một công nghệ tiên tiến vượt bậc, đủ khả năng đáp ứng tất cả các loại hình dịch vụ cho tất cả các đối tượng người dùng. Những công nghệ “đình đám” nổi lên gần đây như WiMAX 802.16m, Wibro, UMB, 3G LTE, DVB-H…mặc dù chúng đáp ứng tốc độ truyền lớn, tuy nhiên chúng chỉ được xem là những công nghệ pre-4G (tiền 4G).
Mạng 4G sẽ là một sự hội tụ của nhiều công nghệ mạng hiện có và đang phát triển như 2G, 3G, WiMAX, Wi-Fi, IEEE 802.20, IEEE 802.22, pre-4G, RFID, UWB, satellite…để cung cấp một kết nối vô tuyến đúng nghĩa rộng khắp (ubiquitous), mọi lúc, mọi nơi, không kể mạng thuộc nhà cung cấp nào, không kể người dùng đang dùng thiết bị di động gì. Người dùng trong tương lai sẽ thực sự sống trong một môi trường “tự do”, có thể kết nối mạng bất cứ nơi đâu với tốc độ cao, giá thành thấp, dịch vụ chất lượng cao và mang tính đặc thù cho từng cá nhân.

Hình 2: Mô hình mạng hỗn tạp 4G
“Khách hàng là thượng đế”
Hiện tại khi chúng ta mua một kết nối di động, kết nối ấy gắn với một hợp đồng, với các ràng buộc của nhà cung cấp mạng. Người dùng hầu như không có bất cứ sự lựa chọn nào khác ngoài dịch vụ mà nhà cung cấp cung ứng. Mỗi người ít nhất cũng có vài loại hợp đồng khác nhau để sử dụng các loại hình dịch vụ khác nhau: hợp đồng dùng điện thoại di động, hợp đồng dùng điện thoại cố định, hợp đồng dùng Internet, hợp đồng dùng GPS, hợp đồng dùng dịch vụ TV di động,….Mọi liên lạc, kết nối của người dùng điều chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà cung cấp dịch vụ (nên còn gọi là "network-centric”).
Thực tế, người dùng chính là mục đích cuối cùng mà một sản phẩm hay một công nghệ muốn hướng tới. Do vậy, liệu chỉ cần cung cấp tốc độ dữ liệu cao là đủ đề đáp ứng nhu cầu của người dùng chưa hay 4G cần phải đáp ứng các yêu cầu khác nữa? Sau đây chúng ta thử cùng nhau xem xét những gì người dùng cần mà công nghệ mạng hiện tại chưa đáp ứng được. Đấy chính là chìa khóa cho sự thành công của 4G!
Tình huống 1: Trước khi bạn đi ra khỏi nhà để đến nơi làm việc, bạn cần biết những thông tin như giờ tàu/buýt, tình trạng kẹt xe trên đường, cũng như dự báo thời gian cần thiết để đi đến chỗ làm việc. Một khi người dùng chọn một phương tiện đi lại, thì thông tin về thời gian, thời điểm chuyển đổi phương tiện tiếp theo,..sẽ được cập nhật liên tục với thời gian thực. Trong lúc ngồi trên phương tiện công cộng, bạn muốn đọc e-mail, nghe rađio, xem TV, kết nối với intranet của công ty để chuẩn bị tài liệu cho buối họp,….
Tình huống 2: Bạn có thể sẽ rất thích nhận được những thông tin shopping, hàng giảm giá, thông tin vui chơi giải trí hấp dẫn khi bạn ngồi relax ở nhà hay đang trong xe buýt. Tuy nhiên sẽ có nhiều bạn lại rất ghét những thông tin kiểu thế này. Do đó, dịch vụ này phải tùy theo sở thích, thói quen của từng người dùng. Cũng tương tự ví dụ khi bạn đi du lịch sang một thành phố hay nước nào đó, bạn sẽ rất hài lòng khi nhận được những thông tin hướng dẫn như bản đồ, những địa danh cần tham quan, các món ngon nên thưởng thức… Mỗi khi đến trước một địa điểm tham quan bạn sẽ nhận được thông tin cụ thể về lịch sử, đặc điểm nơi bạn đang tham quan. Đặc biệt hơn nữa nếu các thông tin cung cấp đến bạn theo đúng tiếng mẹ đẻ của bạn.
Trên đây chỉ là hai tình huống tiêu biểu mà người dùng trong tương lai chờ đợi. Để làm được điều đó, hệ thống mạng 4G phải đặt người dùng vào vị trí trung tâm (user-centric), và các dịch vụ trong tương lai sẽ phải tính đến sở thích, yêu cầu, địa điểm, tình huống, thuộc tính của từng người dùng như nghề nghiệp, tuổi tác, quốc tịch….
Tóm lược
Mặc dù thuật ngữ 4G vẫn chưa được bất kỳ một tổ chức chuẩn hóa nào định nghĩa một cách rõ ràng, tuy nhiên mạng 4G được kỳ vọng đáp ứng các đặc điểm sau:
• Đặc tính được kỳ vọng nhất của mạng 4G là cung cấp khả năng kết nối ABC, mọi lúc, mọi nơi. Để thỏa mãn được điều đó, mạng 4G sẽ là mạng hỗn tạp (bao gồm nhiều công nghệ mạng khác nhau), kết nối, tích hợp nhau trên nền toàn IP. Thiết bị di động của 4G sẽ là đa công nghệ (multi-technology), đa mốt (multi-mode) để có thể kết nối với nhiều loại mạng truy nhập khác nhau. Muốn vậy, thiết bị di động sẽ sử dụng giải pháp SDR (Software Defined Radio) để có thể tự cấu hình nhiều loại rađio khác nhau thông qua một phần cứng rađio duy nhất.
• Mạng 4G cung cấp giải pháp chuyển giao liên tục, không vết ngắt (seamless) giữa nhiều công nghệ mạng khác nhau và giữa nhiều thiết bị di động khác nhau.
• Mạng 4G cung cấp kết nối băng rộng với tốc độ tầm 100Mb/s và cơ chế nhằm đảm bảo QoS cho các dịch vụ đa phương tiện thời gian thực.
• Để vượt lên khỏi tình trạng bảo hòa của thị trường viễn thông, các nhà cung cấp mạng sẽ phải tìm kiếm khách hàng bằng các dịch vụ tùy biến theo yêu cầu của khách hàng.
• Mạng 4G sẽ lấy người dùng làm tâm điểm.
Nguyễn Vương Quốc Thịnh
Đai học Evry, Pháp

Công nghệ 4G

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn | Điện Tử Viễn Thông | Công Nghệ Thông Tin :: Chuyên nghành Điện Tử Viễn Thông :: LÝ THUYẾT HỆ THỐNG THÔNG TIN VÔ TUYẾN :: 3G, HSxPA, LTE-